Dưới đấy là lời giảng Quẻ tử vi Hoán theo sách "Kinh dịch - Đạo của bạn quân tử" của học giả Nguyễn Hiến Lê

:|::|| Phong Thủy Hoán (渙 huàn)
Quẻ Phong Thủy Hoán, đồ hình :|::|| còn gọi là quẻ Hoán (渙 huan4), là quẻ thứ 59 trong gớm Dịch.
Bạn đang xem: Quẻ phong thủy hoán
* Nội quái là ☵ (:|: 坎 kan3) Khảm tuyệt Nước (水).
* Ngoại quái là ☴ (:|| 巽 xun4) Tốn tốt Gió (風).
Giải nghĩa: Tán dã. Ly tán. Lộn ra tràn lan, tán thất, trốn đi xa, lánh xa, thất nhân tâm, hao bớt. Thủy ngộ phong tắc hoán tán bỏ ra tượng: tượng nước gặp gió thì phải tan, phải chạy.
Hoà vui đến cực điểm rồi thì sẽ ly tán, vì vậy sau quẻ đoài đến quẻ Hoán. Hoán là lìa, tan tác.
Thoán từ
渙; 亨.王假有廟.利涉大川.利貞.
Hoán; hanh. Vương cách hữu miếu,
Lợi thiệp đại xuyên, lợi trinh.
Dịch: Lìa tan: hanh khô thông. Vua tới nhà Thái miếu, vượt qua sông lớn thì lợi, giữ đạo chính thì lợi.
Giảng: trên là gió, dưới là nước (Khảm cũng có thể hiểu là mây – như quẻ Thủy lôi Truân, cũng gọi là Vân Lôi truân); gió thổi bên trên nước (hay mây) làm nước tung tóe ra (hay mây rã rã ra), cho nên đặt thương hiệu quẻ là Hoán.
Thường thì nhóm họp mới khô giòn thông (như quẻ tụy), tuy vậy ly tán cũng có khi hanh khô thông, chẳng hạn sương mù tụ lại nhiều quá, nắng lên, nó tan đi thì tốt, hoặc thời nhiễu loạn, dân chúng tụ họp lại chống đối, phải giải tán đi v.v.. Hể hợp thời thì tốt, trái lại thì xấu. Muốn cho công việc giải tán khô cứng thông thì nhà cầm quyền phải có lòng chí thành, như một vua tới nhà Thái miếu; lại phải biết mạo hiểm như có gan vượt qua sông lớn; sau cùng phải giữ đạo chính, đừng làm những việc bất chính.
Thoán truyện giảng ý nghĩa hanh thông của quẻ này như sau: nội quái vốn là quẻ Khôn, một hào dương của quẻ Càn vào núm hào 2 quẻ Khôn mà thành quẻ Khảm; ngoại quái vốn là quẻ Càn, hào 1 quẻ Khôn vào thế hào 1 quẻ Càn, thành quẻ Tốn. Vậy là vào trùng quái Hoán có một hào dương cưng cửng ở trong, một hào âm nhu ở ngoài, mà hào này đắc vị, thuận theo 2 hào dương ở bên trên nó để tiến lên, như vậy là tốt.
Vượt qua sông lớn mà có lợi vì quẻ có cái tượng gỗ (Tốn cũng là cây, gỗ) ở bên trên nước, tức thuyền ở bên trên nước, nhờ thuyền mà qua sông được. Nghĩa bóng là nhờ người có tài mà làm phải việc lớn.
Đại Tượng truyện bàn rộng ra, khuyên sau thời điểm giải tán rồi lại buộc phải nghĩ tới việc nhóm họp lại, mà muốn nhóm họp, thống nhất nhân trọng điểm thì yêu cầu đặt lễ tế Thượng đế, tế Tổ tiên.
Hào từ
1. 初六: 用拯, 馬壯, 吉
Sơ lục: Dụng chứng, mã tráng, cát.
Dịch: Hào 1, âm: Dùng bé ngựa mạnh để cứu vớt, tốt.
Giảng: Ở đầu thời ly tán, còn có thể gom lại được; hào này âm nhu, kém tài, ko đủ sức, nhưng lại trên có hào 2 dương cương cứng đắc trung, ỷ thác vào được, như đi đường xa có bé ngựa khỏe, vì thế tốt.
2. 九二: 渙,奔其机, 悔亡.
Cửu nhị: Hoán, bôn kì kỉ, hối vong.
Dịch: Hào 2, dương: Lúc ly tán, nên đựa vào hào 1 làm ghế ngồi thì hối hận mất đi.
Giảng : Thời này là thời ly tán rồi, dễ có việc ăn uống năn; hào này dương cưng cửng đã giúp đựơc đến hào 1, bây giờ nên dựa vào 1 làm ghế ngồi, đỡ đần nhau thì khỏi phải hối hận.
3. 六三: 渙其躬, 无悔.
Lục tam: Hoán kì cung, vô hối.
Dịch: Hào 3, âm: đánh rã lòng tây riêng của mình đi thì không hối hận.
Giảng: Hào này âm nhu, bất trung ,bất chính, là người có lòng vị kỉ, mà lại ở vị dương lại được hào trên cùng chính ứng với nó, mà có lòng lo việc đời (vì là dương cương); nếu 3 bỏ tính vị kỉ đi, lo gánh việc đời với hào bên trên cùng, thì sẽ không hối hận.
4. 六四: 渙其群, 元吉.渙有丘, 匪夷所思.
Lục tứ: hoán kì quần, nguyên cát. Hoán kì khâu, phỉ di sở tư.
Dịch: Hào 4 âm: Giải tán bè phái của mình đi, rất tốt. Vì như vậy là giải tán cái nhỏ để tập hợp cái lớn lại thành gò đống; điều đó người thường không thể nghĩ tới được.
Giảng: Hào này âm nhu, thuận, giúp đỡ hào 5 vừa cương cứng vừa đắc trung, như vị đại thần giúp một minh quân, mà biết giải tán bè phái của mình đi (sở di nói vậy vì hào 1 ở dưới ko ứng viện với 4, cũng như 4 không còn bè phái), để đoàn kết, tập hợp cả quốc dân mà cùng lo cứu nước; như vậy là giải tán cái nhỏ để gom cái lớn lại thành gò đống, rất tốt. Người thường ko hiểu được lẽ đó mà chê sao lại giải tán đảng của mình. Muốn vậy phải là người đắc chính (âm ở vị âm) , và đắc trung, cương cứng cường như hào 5.
5. 九五: 渙汗其大號, 渙王居, 无咎.
Cửu ngũ: Hoán hãn kì đại hiệu, hoán vương cư,vô cữu.
Dịch: Hào 5, dương: Ban bố hiệu lệnh lớn khắp nước như mồ hôi phát ra ở khắp thân thể, phát hết kho lẫm của vua để chu cấp đến dân, không có lỗi.
Giảng: năm chữ “Hoán hãn kì đại hiệu” tối nghĩa. Chu Hi giảng là hủy bỏ các hiệu lệnh trước đi, những hiệu lệnh đó như mồ hôi, chảy ra mà không trở lại”. Chúng tôi theo Phan Bội Châu mà dịch như bên trên là ban bố hiệu lệnh đi khắp nơi. J Legge và R. WilheLm cũng hiểu như vậy, tuy vậy giảng là những hiệu lệnh đó cứu nguy được đến dân như người bị bệnh mà phát tán, làm mang đến mồ hôi toát ra vậy.
Ba chữ sau: “Hoán vương vãi cư” nghĩa dễ hiểu: vua bắt buộc tán tài để tụ dân, cũng như hào 4, giải tán bè phái để tụ dân, đều là chính sách tốt ở thời ly tán cả.
6. 上九: 渙其血去, 逖出, 无咎.
Thượng cửu: hoán kỳ huyết khử, địch xuất, vô cữu.
Dịch: Hào trên cùng, dương: rã (trừ) được máu )vết yêu đương cũ), thoát khỏi kinh sợ (chữ <逖 > ở đây nên đổi làm chữ dịch <惕> là khiếp sợ), không có lỗi.
Giảng: hào này ở cuối thời ly tán, sắp hết xấu; nó có tài (dương cương), lại được hào 3 ứng viện, cho nên vì thế nó thành công, trừ được vết mến ly tán và thoát khỏi cảnh lo sợ.
***
Phan Bội Châu so sánh quẻ này với quẻ Tụy, đại ý như sau:
Tụy và Hoán là hai thời trái ngược nhau, một thời nhóm họp một thời lìa tan, nhưng lại thời nào cũng khô giòn thông được cả, miễn là biết hành động hợp lúc và có lòng chí thành: Thoán từ nhì quẻ đều có 4 chữ: “Vua tới Thái miếu”, nghĩa là phải chí thành như nhà vua khi vào tế ở Thái miếu.
Nhưng nhị quẻ khác nhau ở chỗ. Tụy có 4 chữ: “lợi kiến đại nhân”, Hoán có 4 chữ: “Lợi thiệp đại xuyên” vì ở thời Tụy, thuận cảnh, chỉ cần có người tài đức là làm đề nghị việc còn ở thời Hoán, nghịch cảnh, phải có tài đức mà lại phải mạo hiểm nữa. Đó là thâm ý của cổ nhân.
Xem thêm: Trang Trí Đầu Báo Tường Chào Mừng Ngày 20-11, Trang Trí Đầu Báo Tường Chào Mừng Ngày 20
Sáu hào quẻ Hoán ý nghĩa rất phân minh: hào 1, còn hy vọng cứu chữa được; hào 2 ly tán đã nhiều rồi, chưa cứu được; hào 3 có thể bắt tay làm việc, muốn vậy phải bỏ lòng vị kỷ đi; hào 4, phải giải tán bè phái để đoàn kết toàn dân; hào 5 phải ra hiệu lệnh mới, ban phát của riêng, hào 6 thì thành công. Quan trọng nhất là lời khuyên hào 4 và 5.